Hôm nay, Jamo xin giới thiệu tới các bạn học sinh bài Soạn văn 11 bài: Tự tình (Bài II), với nội dung bài soạn theo gợi ý sách giáo khoa rất chi tiết và ngắn gọn. Đây sẽ là nguồn thôn tin hữu ích giúp các bạn học sinh có kết quả cao hơn trong học tập. Mời thầy cô cùng các bạn tham khảo.
I. Sơ lược về tác giả, tác phẩm
* Tác giả Hồ Xuân Hương
Đầu tiên, bài soạn văn 11 Tự tình 2 xin được giới thiệu về tác giả Hồ Xuân Hương. Bà được sinh ra và lớn lên tại Nghệ An, cụ thể là ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu – đây cũng là nơi xuất thân của nhiều văn nhân mặc khách tài hoa. Đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có nguồn tài liệu cung cấp thông tin xác đáng về năm sinh, năm mất của bà nhưng Hồ Xuân Hương là một trong số những tên tuổi lớn cùng với Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm, Phạm Thái, Nguyễn Du,…
Đây là một gương mặt đại diện ưu tú nhất của bộ phận văn học mang theo sứ mệnh đấu tranh đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người trong thời kì này. Sở dĩ như vậy là vì cuộc đời bà đã trải qua nhiều thăng trầm nhưng đến cuối cùng vẫn không được tận hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn. Thế nên có thể thấy trong thơ bà có một nguồn cảm hứng sáng tạo vô cùng dồi dào về chủ đề số phận của người phụ bằng một thái độ rất đỗi chân thành, thiết tha. Thái độ, tình cảm ấy được Hồ Xuân Hương thể hiện trong cả những tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm nhưng gây được ấn tượng hơn cả vẫn là những vần thơ chữ Nôm thẳng thắn, mạnh mẽ nhưng lại rất tinh tế và tài hoa. Do vậy, bà mới được người đời ưu ái tôn vinh là “Bà chúa thơ Nôm” của văn học Việt Nam.
* Bài thơ Tự tình
Khi soạn bài Tự tình 2, chúng ta cần điểm qua một vài điều cơ bản về tác phẩm này. Đây là một tác phẩm trữ tình khá tiêu biểu cho tư tưởng và nghệ thuật của Hồ Xuân Hương. Tự tình 2 được viết dưới hình thức của thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật và là một trong số ba bài thơ Tự tình nổi tiếng của nữ sĩ. Bài thơ nói lên tư tưởng của nhà thơ về quyền được hưởng hạnh phúc tuổi xuân của người phụ nữ trong xã hội phong kiến; đồng thời là sự cảm thông và niềm trân trọng khát vọng giải phóng tình cảm của người phụ nữ trong xã hội ấy.
*Bố cục của tác phẩm
– Đề (hai câu đầu): Nỗi niềm buồn tủi cô đơn của nữ sĩ trong đêm khuya thanh vắng
– Thực (hai câu tiếp): Tình cảnh đầy chua xót, bẽ bàng
– Luận (hai câu tiếp theo): Thái độ phản kháng phẫn uất
– Kết (hai câu cuối): Tâm trạng chán chường, buồn tủi
Xem thêm: Bài soạn chi tiết Chiếc Thuyền Ngoài Xa
II. Hướng dẫn soạn theo các câu hỏi ở SGK
Câu 1 (trang 19 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)
Trong bốn câu thơ đầu, hình ảnh của nhân vật phần nào cho thấy tác giả đang ở trong một hoàn cảnh đặc biệt và tâm trạng đặc biệt. Có thể hình dung nhân vật ấy chính là người phụ nữ cô đơn đang nghe thấy văng vẳng tiếng trống trong đêm khuya tĩnh mịch, tiếng trống báo hiệu thời khắc dần qua.
– Thời gian: Đêm khuya.
– Không gian: trống trải, mênh mông rợn ngợp.
– Lòng người: trơ trọi, từ “trơ” đi liền với “cái hồng nhan” cùng biện pháp đảo ngữ gợi cảm giác xót xa, bẽ bàng.
– Hình ảnh tương phản: Cái hồng nhan ( nhỏ bé- hữu hạn) >< nước non ( to lớn – vô hạn)
→ Tô đậm tâm trạng cô đơn, lẻ loi.
– Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn, càng buồn, càng cảm nhận được nỗi đau của thân phận.
– Hình ảnh “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” là hình tượng chứa hai lần bi kịch: trăng sắp tàn ( bóng xế) mà vẫn khuyết chưa tròn. Đó là sự tương đồng với người phụ nữ.
=> Ngoại cảnh cũng chính là tâm cảnh: Trăng = Người (Trăng sắp tàn mà vẫn chưa tròn – Tuổi xuân trôi qua mà hạnh phúc không trọn vẹn).
Câu 2 (trang 19 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)
Câu 5 và 6 của bài thơ cũng là một cặp câu độc đáo trong việc mượn hình tượng thiên nhiên, sự vật để diễn tả tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước số phận.
– Hình tượng thiên nhiên trong hai câu luận dường như cũng mang cả nỗi niềm phẫn uất của con người:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
– Những sinh vật bé nhỏ như đám rêu kia mà vẫn không chịu phận nhỏ bé, hèn mọn, không chịu yếu mềm. Tất cả như đang muốn bứt thoát hẳn lên: Rêu phải mọc “xiên ngang mặt đất”, đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, lại phải nhọn hoắt để “đâm toạc chân mây”.
– Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ càng làm nổi bật sự phẫn uất của “đá”, của “rêu” và cũng là sự phẫn uất của tâm trạng con người. Cùng với biện pháp đảo ngữ là sự kết hợp giữa những động từ mạnh (“xiên”, “đâm”) với các bổ ngữ độc đáo (“ngang”, “toạc”) thể hiện rất rõ sự bướng bỉnh và ngang ngạnh.
– Câu thơ căng đầy sức sống. Đá, rêu như đang oán hờn, như đang phản kháng quyết liệt với tạo hoá. Có thể nói, trong hoàn cảnh bi thảm nhất, thơ Hồ Xuân Hương vẫn ẩn chứa mạnh mẽ một sức sống, một khát khao.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Từ Ấy của Tố Hữu
Câu 3 (trang 19 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)
Ý nghĩa hai câu cuối có thể thấy được gói trong hàm ý của từ “xuân”, “lại” và nghệ thuật tăng tiến: “mảnh tình” – “san sẻ” – “tí” – “con con”. Dường như dù cho có đột phá và quyết liệt trong suy nghĩ và hành động như những gì được bộc bạch qua câu thơ 5 và 6 nhưng bây giờ, nỗi niềm và khao khát ấy lại có phần lắng dịu trong bất lực và chán chường.
Câu thơ thứ 7 hiển hiện biết bao sự chán ngán: thời gian tuổi xuân con người không thể đo song song đồng thời cùng thời gian mùa xuân của đất trời. Trong khi bốn mùa xuân – hạ – thu – đông vẫn xoay vần thì con người chỉ được hạnh phúc của tuổi xuân trong một giới hạn nào đó.
Đặc biệt, ở câu thơ cuối cùng, Hồ Xuân Hương đã gửi gắm đến người đọc một lời thở than thầm kín của người phụ nữ khi phải chịu cảnh lẻ loi, cô đơn. “Mảnh tình” nàng có vốn đã bé mọn, nhưng cũng không có quyền được giữ riêng cho mình mà phải “san sẻ” để rồi chỉ có thể nhận về “tí con con”. Đó cũng chính là số phận chung của những “cái hồng nhan” phải chịu cảnh chồng chung trong xã hội phong kiến.
Câu 4 (trang 19 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)
– Bi kịch:
+ qua những hình ảnh đối: Cái hồng nhan – nước non; Đêm khuya – trơ cái hồng nhan
+ chi tiết: đưa say lại tỉnh, trăng bóng xế khuyết chưa tròn, xuân đi xuân lại lại, mảnh tình san sẻ tí con con.
⟹ Tác giả đau buồn, phẫn uất trước duyên phận hẩm hiu, lỡ làng mà phải chia sẻ tình yêu thiêng liêng.
– Khát vọng qua 2 câu luận.
⟹ Đó dù là sự sự cô đơn, dù à hoàn cảnh không được tốt đẹp, duyên phận hẩm hiu những ở tác giả vẫn luôn là khát khao được sống, được hạnh phúc.
III. Luyện tập
So sánh bài thơ Tự tình I và Tự tình II của tác giả Hồ Xuân Hương (trang 20 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
1. Giống nhau:
– Sử dụng thơ Nôm đường luật, thể hiện tài năng của tác giả trong việc sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, tài hoa nhất là khả năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật: đảo ngữ, phép đối, tăng tiến…
– Bộc lộ tâm trạng: nỗi buồn tủi, xót xa, phẫn uất trước cảnh duyên phận hẩm hiu.
2. Khác nhau:
– Cảm xúc trong Tự tình I là nỗi niềm của nhà thơ trước duyên phận hẩm hiu, nhiều mất mát, trước lẽ đời đầy nghịch cảnh, đồng thời là sự vươn lên của chính bản thân, thách đố lại duyên phận.
– Còn ở Tự tình II, cũng là sự thể hiện của bi kịch duyên phận muôn màng, cố gắng vươn lên nhưng cuối cùng cũng không thoát được bi kịch. Chính vì thế bi kịch như được nhân lên, phẫn uất hơn.
Xem thêm: Bài soạn chi tiết Vợ nhặt – Kim Lân
Hướng dẫn soạn bài Tự tình trên đây sẽ đưa các em đến với những kiến thức cần thiết mà các em cần nắm trước khi đến lớp như: tâm trạng, tính cách và khát vọng sống của nhân vật trữ tình cùng một vài nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ Tự tình. Mong rằng, từ hướng dẫn soạn bài Từ Tình này, các em sẽ có được những gợi ý trả lời hay nhất cho các câu hỏi trong SGK, có thêm một bài soạn chỉn chu hơn trước khi đến lớp. Chúc các em có một quá trình soạn bài Tự tình thuận tiện.